Trong thời gian sống tại Đà Lạt, Hương Giang mến yêu nhiều loài cây cỏ, hoá lá, nhưng có một loài cây đem đến cho cô những cảm xúc đặc biệt đó chính là cây Atiso. Vào năm 2012 Hương Giang đã quyết định đăng ký thành lập Công ty Cổ phần Dalat Farm để khẳng định Thành phố Đà Lạt được ghi nhận hình thành từ năm 1893, thời điểm bác sĩ Alexandre Yersin lần đầu tiên đặt chân đến cao nguyên Lâm Viên. Mặc dù vậy, trước thời kỳ này đã có nhiều nhà thám hiểm khác từng tới Lâm Viên, vùng đất này vốn là nơi cư trú của những cư dân người Lạch. Tên gọi và lịch sử hình thành của Đà Lạt. Đà Lạt là vùng đất hoàng triều cương thổ của chế độ phong kiến nhà Nguyễn, có nghĩa là vùng đất của nhà Vua nằm trên vùng cao nguyên đất đỏ bazan màu mở với khí hậu mát mẻ quanh năm . Đường phố Đà Lạt Hình thành Dự án VIF 89-003 của Tổ chức du lịch quốc tế (OMT) cũng đã xác nhận Đà Lạt là một trong các hạt nhân của tổ chức đó. Mặt khác, làn sóng du lịch của nhân dân trong cả nước và du khách nước ngoài ngày một tăng làm cho thành phố ngày một sống động hơn. Hàng loạt khách sạn, nhà hàng được sửa chữa, tân trang. Vay Tiền Nhanh Chỉ Cần Cmnd Nợ Xấu. Những hình ảnh sau đây được chụp ở Đà Lạt hơn 100 năm trước, vào thời điểm mà phố núi này bắt đầu được gọi bằng những mỹ danh là “thủ đô mùa hè” của Đông Dương, là “đô thị nghỉ dưỡng”, một khu nghỉ mát ở trên cao. Lúc này hàng loạt công trình lớn mới được bắt đầu xây dựng ở Đà Lạt sau khi tuyến xe lửa Đà Lạt – Phan Rang đã đi vào hoạt động được một nửa từ Phan Rang lên đến Xóm Gòn, giáp với Lâm Đồng hiện nay, giao thông đường bộ cũng thuận tiện hơn bằng việc mở rộng con đường Phan Thiết – Di Linh – Đà Lạt. Có một sự nhầm lẫn phổ biến khi nói về sự hình thành thành phố Đà Lạt từ thế kỷ 19, đó là hầu hết những câu chuyện về lịch sử Đà Lạt đều có điểm giống nhau, nói rằng cao nguyên Lang Bian được bác sĩ Yersin phát hiện ra vào ngày 21/6/1893. Tuy nhiên thực tế Yersin không phải là người Châu Âu đầu tiên đặt chân đến đây. Khi vùng đất này chính thức trở thành thuộc địa của Pháp năm 1867, ý thức được sự thiếu hiểu biết về phần lớn lãnh thổ Nam kỳ thuộc quyền quản lý của mình, chính quyền Pháp ở Nam kỳ đã đưa ra hàng loạt các cuộc thám hiểm thăm dò tại Tây Nguyên vào đầu những năm 1880. Chuyến thám hiểm đầu tiên được bác sĩ Paul Neis và trung úy Albert Septans thực hiện năm 1881, họ đã đến cao nguyên Lang Bian, ngược thượng lưu sông Đồng Nai để lên tận vùng đầu nguồn. Sau đó là hàng loạt cuộc thám hiểm khác nữa rồi mới đến chuyến đi của bác sĩ Yersin. Dù không phải là người đầu tiên, nhưng cuộc thám hiểm của Yersin lên Lang Bian vào năm 1893 có ý nghĩa đặc biệt, có thể xem là tiền đề cho việc khai sinh ra Đà Lạt. Chuyến đi của ông được Bộ giáo dục ở thuộc địa giao cho nhiệm vụ thám hiểm khoa học, đánh giá tiềm năng phát triển và các nguồn lực chưa được khai thác. Ngoài ra Toàn quyền lúc đó là De Lanessan giao cho Yersin nhiệm vụ thực tế hơn Nghiên cứu phương án làm tuyến đường bộ đi từ Sài Gòn thâm nhập trực tiếp vào xứ sở người Thượng. Rồi sau đó, một sự kiện quan trọng khác ảnh hưởng sâu sắc đến việc xây dựng Đà Lạt, đó là tình hình bệnh tật của lính Pháp khi phải đối mặt với thời tiết khắc nghiệt của miền nhiệt đới, nhiều bệnh nhân nặng thậm chí phải được thuyên chuyển về lại chính quốc bằng tàu biển để được sống lại trong bầu không khí ôn đới, hy vọng sức khỏe được phục hồi nhanh hơn. Tuy nhiên biện pháp này tốn rất nhiều chi phí nhưng không đạt được hiệu quả như mong muốn, thậm chí có nhiều binh lính phải bỏ mạng trên tàu trong nhiều tháng lênh đênh trên biển vượt đại dương. Vì vậy, trong nhiệm kỳ của toàn quyền Paul Doumer vào năm 1897, ông truyền đạt đến bác sĩ Yersin về mong muốn của mình là xây dựng một trạm điều dưỡng ở trên núi, nơi các quan chức và kiều dân có thể phục hồi sức lực nhanh chóng. Bác sĩ Yersin đã phản hồi lại rằng cao nguyên Lang Bian mà ông thám hiểm vài năm trước đó đáp ứng đầy đủ các điều kiện thích hợp để xây dựng một trạm điều dưỡng ở trên núi. Vùng đất này còn nguyên sơ chưa từng được khai thác nên rất thuận lợi để người Pháp xây dựng một thành phố thực thụ mang phong cách Châu Âu đúng như ông Doumer mong muốn. Tuy nhiên để được như vậy thì có rất nhiều việc phải làm. Thời gian sau đó, việc xây dựng nơi này thành một thành phố nghỉ dưỡng diễn ra khá chậm chạp vì phải cần một ngân sách vô cùng lớn để làm đường giao thông rồi đưa số lượng vật liệu khổng lồ vượt vài trăm ki lô mét lên nhiều quả núi. Lúc đó Đà Lạt vẫn là một vùng sơn cước bị cô lập với thế giới bên ngoài. Cho đến năm 1910, Đà Lạt vẫn sống trong lay lắt vì ngân quỹ trống rỗng, mọi việc bị đình trệ. Tình hình bắt đầu có tiến triển hơn kể từ năm 1913, năm mà Đà Lạt được sáp nhập vào khu Di Linh, và toàn quyền Đông Dương lúc đó là Albert Sarraut muốn biến nơi này thành địa điểm nghỉ mát trên cao số một của toàn Đông Dương. Thời điểm này, người Pháp có mặt ở Đông Dương rất đông đúc, họ ngày càng quan tâm đến nơi nghỉ mát có khí hậu giống ở chính quốc. Nghị định ngày 6/1/1916 đã chính thức hóa việc thành lập cùng lúc tỉnh Lang Bian và thị xã Đà Lạt, được Toàn quyền Đông Dương quản lý trực tiếp. Giai đoạn từ thập niên 1920 trở về sau được xem là thời của sự trỗi dậy của một thành phố. Để phục vụ cho số lượng khách du lịch Châu Âu tăng mạnh đến nơi này, toàn quyền Đông Dương lúc đó là Ernest Roume đã ra lệnh xây biệt thự và một khách sạn tráng lệ chưa từng có, khách sạn mang tên Lang Bian Palace, sau này được biết với tên Dalat Palace và vẫn còn cho đến hiện nay. Diện mạo nguyên thủy của Lang Bian Palace mang phong cách cổ điển với các trang trí kiểu nghệ thuật rococo thịnh hành vào thế kỷ 18 ở Pháp. Diện mạo của Dalat Palace của ngày nay được chỉnh sửa lại từ năm 1943 để nó mang đường nét vuông vắn hiện đại hơn. Mời các bạn xem lại hình ảnh Lang Bian Palace 100 năm trước Khuôn viên ᴄủa Lanɡbian Palaᴄе rộnɡ đến hơn 40 nɡhìn mét vuônɡ, ᴄhunɡ quanh là vườn hᴏa, thảm ᴄỏ, rừnɡ thônɡ. Có thể nói sự đồ sộ ᴄủa Lanɡbianɡ Palaᴄе hᴏàn tᴏàn áρ đảᴏ mọi ᴄônɡ trình ᴄủa Đà Lạt về sau này. Vàᴏ thuở sơ khai ᴄủa Đà Lạt, Lanɡ bianɡ Palace đượᴄ xây dựnɡ ở νị trí quy hᴏạᴄh dành riênɡ, ᴄó rất nhiều lợi thế. Cận ᴄảnh là hồ Xuân Hươnɡ, đồi Cù,… Ở phía xa là dãy núi Lanɡ Bianɡ xanh thẳm. Kháᴄh sạn này ᴄó hệ thốnɡ bậᴄ thanɡ trải dài thеᴏ sườn đồi, từ phía Hồ Xuân Hươnɡ đến tận lối νàᴏ ᴄhính. Chi tiết này làm ᴄhᴏ kháᴄh sạn Lan Bian Palaᴄе thêm phần uy nɡhi, duyên dánɡ mà khônɡ kháᴄh sạn nàᴏ ᴄó đượᴄ. Khách sạn có 3 tầnɡ với 43 phòng, đượᴄ tranɡ bị đầy đủ tiện nɡhi νà xa hᴏa nhất, như dàn nhạᴄ, rạp ᴄhớp bónɡ, phònɡ khiêu νũ, phònɡ tập thể dụᴄ, sân tеnnis, ᴄỡi nɡựa, νườn rau riênɡ νà một nhà hànɡ Pháp. Nɡᴏài ra ᴄòn 2 phònɡ họp νới sứᴄ ᴄhứa 100 nɡười. Từ bên trên Langbiang Palace nhìn xuống Cũng trong thời gian này đầu thập niên 1920, chính quyền cho đào một cái hồ nhân tạo ngay giữa trung tâm thành phố, và đến nay nó vẫn là một biểu tượng của Đà Lạt, đó là Hồ Xuân Hương ngày nay. Nhà thủy tạ trên Hồ Xuân Hương – du Lac Hồ Xuân Hương khi chưa được mở rộng. Đằng xa là Lang Bian Palace Một số hình ảnh Chợ Cũ Đà Lạt Dãy nhà trong hình ở khu Hòa Hình, đoạn nằm giữa 2 còn đường Tăng Bạt Hổ và Trương Công Định hiện nay Dãy nhà bên trái được gọi là Chợ Cây, sau này bị cháy và xây lại chợ mới kiên cố hơn, ngày nay là rạp Hòa Bình Những hình ảnh khác của Đà Lạt thập niên 1920 Nhà thờ Chánh Tòa đầu tiên của Đà Lạt, chỉ tồn tại trong khoảng 2 năm Năm 1917, một linh mụᴄ ᴄó tên là Niᴄᴏlas Cᴏuνеur đã đến Đà Lạt để tìm kiếm một địa điểm xây dựnɡ một νiện nɡhỉ dưỡnɡ ᴄhᴏ ᴄáᴄ ɡiáᴏ sĩ νà ônɡ đã ᴄhᴏ xây dựnɡ một nhà ɡiáᴏ dưỡnɡ nɡay νị trí sau nhà thờ ᴄᴏn Gà hiện nay. Vàᴏ đầu thánɡ 5 năm 1920, ɡiám mụᴄ Quintᴏn ɡiám quản tổnɡ tòa tại Sài Gòn đã quyết định thành lập Giáᴏ Phận Đà Lạt νà bổ nhiệm linh mụᴄ Frédériᴄ Sidᴏt làm ᴄha sở đầu tiên. Một trᴏnɡ nhữnɡ νiệᴄ làm quan trọnɡ ᴄủa Cha Sidᴏt là xây dựnɡ một nɡôi thánh đườnɡ. Kíᴄh thướᴄ ᴄủa nɡôi nhà thờ ᴄhánh tòa đầu tiên ᴄủa Đà Lạt này khá khiêm tốn ᴄhiều dài 24m, rộnɡ 7m νà ᴄaᴏ 5m, xây bên ᴄạnh Dưỡnɡ νiện đã ᴄó trướᴄ đó. Cửa ᴄhính nhà thờ đượᴄ ᴄấu trúᴄ thеᴏ hình νònɡ ᴄunɡ nhọn ᴏɡiνal, đượᴄ ᴄhạm trổ νà sơn sᴏn thiếp νànɡ kiểu Á Đônɡ. Trên νònɡ ᴄunɡ ᴄửa ᴄhính, ᴄó khắᴄ dònɡ ᴄhữ bằnɡ tiếnɡ La-tinh “HIC DOMUS EST DEI” đây là nhà ᴄủa Thiên Chúa. Nhà thờ Chánh Tòa đầu tiên của Đà Lạt trong dịp Noel cách đây tròn 100 năm – Trên đồi dinh tỉnh trưởng – Dinh tỉnh trưởng Đà Lạt – Biệt thự nghỉ mát của Thống đốc Nam Kỳ thập niên 1920. Trước 1975 là tòa Hành chánh tỉnh Tuyên Đức. Nay là UBND Tỉnh Lâm Đồng – Sân tennis – Đường vào Dalat từ ngả đèo Mimosa – Bưu điện – Khách sạn ở Đà Lạt 100 năm trước – Cam Ly – – – – – – Thác Gougah còn có tên gọi là thác Ổ Gà ở Đức Trọng – – – – – Trường lycée Yersin – – Phía xa là lycée Yersin lúc đang xây – Trường Petit lyceé, sau này là trường tiểu học Yersin – Petit lyceé – Ecole élémentaire de Dalat, nay là trường tiểu học Đoàn Thị Điểm đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa – – – Bên trong ga Đà Lạt Dốc trong hình ngày nay là đường Lê Đại Hành, phía xa là đập Ông Đạo đang được xây dựng – Tuyến đường xe lửa nối Phan Rang đến Đà Lạt được tiến hành từ năm 1903, đến năm 1916 mới hoàn thành được một nửa và khánh thành tuyến Phan Rang đến đoạn ranh giới Ninh Thuận – Lâm Đồng hiện nay. Đến năm 1932 mới thông tuyến Phan Rang đến Đà Lạt Một số tòa nhà nổi tiếng ở Đà Lạt được xây vào thập niên 1930 90 năm trước Khách sạn Du Parc được khánh thành vào năm 1932. Khách sạn mang lối trang trí tinh tế kiểu Pháp, trần nhà cao vợi, sàn gỗ cổ kính. Khách sạn Du Parc đóng cửa sau năm 1975 và mở lại năm 1997 với cái tên Novotel Dalat, đến năm 2010 thì đổi lại tên cũ. – Tòa nhà viện Pasteur Đà Lạt được khởi công xây dựng vào năm 1932 và hoàn thành vào tháng 6 năm 1935. Đến năm 1936, theo đề xuất của bác sĩ Alexandre Yersin, chính quyền Pháp quyết định thành lập Viện Pasteur Đà Lạt, cơ sở cuối cùng trong chuỗi các Viện Pasteur tại Đông Dương. Giống như phần lớn các công trình kiến trúc ở Đà Lạt, Viện Pasteur có bố cục tổng thể theo hình khối nằm ngang ổn định, gắn kết chặt chẽ với mặt đất. Công trình gồm hai tầng, mặt ngoài đối xứng gần như hoàn hảo, được trang trí bởi những cửa sổ kiểu cách đa dạng, một phần tường tầng trệt xây theo lối thô giáp. Kiến trúc của Viện Pasteur Đà Lạt chịu nhiều ảnh hưởng từ trào lưu kiến trúc mới. Công trình là tổ hợp của những mảng khối hình chữ nhật, các hình khối mạnh mẽ, đường nét đơn giản và rõ ràng. Nhìn từ ngoài vào, mặt chính của viện trang trí một chân dung Louis Pasteur đắp nổi và dòng chữ Institut Pasteur ở phía trên. Mặt đứng của công trình phản ánh trung thực cấu trúc của mặt bằng. Hệ mái bằng có phần tường xây cao hơn mái hắt, một nét mới trong hình thức kiến trúc thời kỳ này. Xung quanh viện bao bọc bởi một số biệt thự, trước đây vốn là nơi ở của các bác sĩ làm việc trong viện. – Nhà ga được người Pháp xây dựng từ năm 1932 đến 1938 thì hoàn thành, là nhà ga đầu mối trên tuyến Đường sắt Phan Rang-Đà Lạt dài 84 km. Nhà ga có phong cách kiến trúc độc đáo, có ba mái hình chóp, là cách điệu ba đỉnh núi Langbiang hoặc nhà rông Tây Nguyên. – Dinh 2 được xây từ năm 1932, là nơi nghỉ dưỡng của toàn quyền Đông Dương Đông Kha – Hình ảnh mahhhai flickr Tên gọi và lịch sử hình thành của Đà LạtHình thànhCột mốc 1893Tên gọiKhí HậuCác điểm du lịch nổi bật nhất Đà Lạt hiện nay Đà Lạt là vùng đất hoàng triều cương thổ của chế độ phong kiến nhà Nguyễn, có nghĩa là vùng đất của nhà Vua nằm trên vùng cao nguyên đất đỏ bazan màu mở với khí hậu mát mẻ quanh năm Đường phố Đà LạtHình thànhVào cuối thế kỷ 19, theo chỉ thị của tướng toàn quyền Đông Dương Paul Doumer, một phái đoàn đi ngược theo những con sông để chinh phục những ngọn núi cao phía Tây, khi đặt những bước chân đến vùng đất thượng nguồn của con sông Đồng Nai, đoàn thám hiểm của bác sỹ Alexandre Yersin đã bị thu hút bởi những đồi cỏ trãi dài bên những sườn núi và khi hậu thì gần giống với nước Pháp để cho các binh sỹ dưỡng thương và nghỉ dưỡng. Trường YersinCột mốc 1893Lần thứ hai đoàn thám hiểm quay trở lại cao nguyên Lâm Viên hay còn gọi Langbiang vào năm 1893, lần này đoàn thám hiểm tìm được vùng đất có độ bằng tốt hơn cao đỉnh núi Lâm Viên và sau đó được chọn xây dựng một thị trấn nhỏ mang tên Đà Lạt. Năm 1993 tỉnh Lâm Đồng kỷ niệm 100 năm ngày hình thành Đà Lạt. Trường Cao ĐẳngTên gọiLà vùng đất sinh sống của nhiều dân tộc thiểu số, tring đó nổi bật nhất vẫn là dân tộc Lạch, dân tộc Chil và dân tộc Srê. Theo ngữ hệ của người Tây Nguyên bản địa những từ Đắk, Đa, Đà và Đạ thường dùng chỉ từ nước. Madagui hay đọc chuẩn hơn là Mạ Đạ Gùi nghĩa là dòng suối của người Mạ, hay Đắk Lắk nghĩa là hồ nước Đắk=nước, Lắk=hồ. Vậy Đà Lạt là suối suối của người Lạt theo ghi chép của người Pháp, người Lạch hay còn gọi là Lạt hay Lát, dòng suối ở đây là Cam Ly. Cây Xăng - Bến XeKhí HậuNằm ở độ cao so với mực nước biển, điểm cao nhất tại đây là đỉnh núi Langbiang Địa hình xung quanh là núi và bình nguyên trên núi, nên khí hậu Đà Lạt mát mẻ quanh năm. Mùa mưa ảnh hưởng bởi gió mùa Tây Nam nên gây mưa từ tháng 6 đến tháng 10 mỗi năm. Từ tháng 11 trở đi thời tiết vô cùng đẹp và nhiều hoa đua nở. Hồ Xuân HươngCác điểm du lịch nổi bật nhất Đà Lạt hiện nayTop 8 tour Đà Lạt nổi bật nhất tại xứ sở sương mờ được các Cty Lữ Hành Uy Tín giới thiệu đến du khách với chi phí từ Ghép Lẻ 1 ngàyTour Các Điểm Hot trong ngàyCác Tour Ghép Tại Đà Lạt khởi hành mỗi ngày, bạn chỉ cần đặt qua email, zalo, hoặc gọi số hot line của các công ty Uy Tín như Lữ Hành Quốc Tế GoTour hoặc nhé. Xe đón và trả tại Homestay hoặc khách sạn Đà Lạt - Thứ bảy, 23/04/2022 1942 GMT+7Theo dõi MTĐT trênĐà Lạt hiện nay được biết đến là thành phố thơ mộng và là điểm đến du lịch lý tưởng. Thế nhưng ít ai biết, 129 năm trước, nơi đây là một vùng đất hoang vu giá lạnh, rừng núi hiểm trở… Năm 1893 được một nhà khoa học người Pháp gốc Thụy Sĩ mở một cuộc hành trình thám hiểm, khám phá ra vùng đất Cao Nguyên này và từ đó ông khai sinh ra thành phố Đà căn biệt thự cổ thiết kế theo kiến trúc của người Pháp đã được sửa sang Cách đây khoảng hơn 10 thế kỷ, mảnh đất này đã có loài người sinh sống. Đó là khẳng định của các nhà sử học, các nhà khảo cổ học, và trải qua các triều đại phong kiến Việt Nam hầu như mảnh đất này bị lãng quên. Sau này có một viên quan khá nổi tiếng ở Viễn Đông đặt chân đến mảnh đất này vào thời điểm trước năm 1893. Lúc đến đây ông cũng có ghi chép nhưng không có đề xuất gì nên Đà Lạt hoàn toàn vẫn là bí ẩn! Sau đó, vào năm 1893 có một nhà khoa học tên Alexandre Yersin người gốc Thuỵ Sĩ mang quốc tịch Pháp, là một nhà khoa học và chính ông là người sản xuất ra một loại vacxin giệt thạch cứu nhân loại. Sau ba lần thám hiểm thất bại thì lần thứ tư ông đã đặt chân đến vùng đất này. Lúc đó 1 giờ chiều ngày 21/6/1893. Trong hồi ký Alexandre Yersin có viết Trên đường đi thám hiểm, lúc đó chúng tôi gặp một thác nước rất lớn, hùng vĩ ở ven lối mòn. Chúng tôi ghé hỏi già làng thác nước tên gì? Già làng trả lời thác Prenn, chúng tôi tiếp tục hỏi Prenn nghĩa là gì? Già làng trả lời “cà đắng” và quả thật khi phóng tầm mắt ra chung quanh con suối thì chúng tôi thấy rất nhiều vạt cà đắng. Đoàn chúng tôi đã dừng lại tham quan và khám phá thác khoảng một giờ đồng hồ sau đó nhắm về hướng Bắc tiếp tục đi thám ảnh Đà Lạt trong sương mù Đoàn thám hiểm lên đến cửa ngõ Đà Lạt khoảng 5 giờ chiều và dừng chân bên một ngọn đồi lớn. Bấy giờ xác định là đồi Robin, cửa ngõ Thác Prenn Đà Lạt đồi Robin chính là ga đi của cáp treo Đà Lạt ngày nay. Hồi ký của Yesin tiếp tục viết Khi đó trời rất lạnh, chúng tôi hầu như phải đốt lửa và thay nhau canh thú dữ. Dự kiến 7 giờ sáng hôm sau chúng tôi nhằm hướng Tây Bắc để thám hiểm rộng ra vùng đất này, nhưng vì sương mù dày đặc cho nên khoảng 8 giờ chúng tôi mới ra đi. Hướng thám hiểm của chúng tôi hầu như không có lối đi, phải phát quang bụi rậm rồi đi bộ dò dẫm. Chúng tôi đi mãi đi mãi cho đến 4 giờ chiều thì gặp một hồ nước rất lớn giữa rừng thông. Tôi tạm đặt tên cho nó là Lăng Lắc. Trong đoàn thám hiểm của Yersin có một vị tên là Yagus, ông này là người dân tộc Chăm, tháp tùng với đoàn từ Ninh Thuận lên đến xứ này. Trong lúc kiếm củi để nấu cơm chiều, Yagus phát hiện ra một bản dân tộc khoảng 10 nóc nhà nép mình bên hồ nước lớn. Ông ta về bẩm báo với Yersin, Yersin lập tức đến hỏi già làng nơi đây gọi là gì? Già làng trả lời “Đả Lạch”. Yersin hỏi tiếp Đả Lạch nghĩa là sao? Thì già làng mới cắt nghĩa “Đả” là nước, những con sông con suối, “Lạch” là dân tộc Lạch cho nên ghép vào thành “Đả Lạch”. Năm tháng qua đi, người bản địa cứ gọi nơi đây là “Đả lạch”, người Pháp phát âm chệch đi chút xíu “Đà las” là cụm từ của tiếng La Tinh các chữ cái đầu với nhau. Nó có cái nghĩa rất hay là Cho người này niềm vui, cho người khác sự mát mẻ. Và sau này khi người Kinh của mình đến đây, lập ra đồn điền chè, cà phê và xây dựng thành phố Đà Lạt thì đã gọi mềm đi là “Đà Lạt”.Nhà báo Hà Hữu Nết phải cùng nhà thơ Lê Thiếu Nhơn - UVBCH, trưởng ban nhà văn trẻ HNV TP HCM Như vậy nguyên thủy tên của địa danh vùng đất này là Đả Lạch, Đà Las, Đà Lạt. Sau này Yersin còn nhiều lần lên thám hiểm nữa và ông có viết một tờ trình cho toàn quyền Pháp Yandti. Ông khẳng định trên toàn cõi Việt Nam không có nơi nào lý tưởng như Đà Lạt để xây dựng trung tâm nghỉ mát và nghỉ dưỡng cho người Pháp. Ông đang loay hoay tìm một địa danh để nó tương đồng với mẫu quốc, tức là phải mát mẻ và đồng thời có mấy yếu tố để xây dựng trung tâm nghỉ dưỡng 1 phải là mát mẻ khí hậu ôn đới, 2 là dễ dàng đi, đến giao thông thuận tiện và thứ ba là có nguồn nước để nuôi sống hai vạn dân. Đặc biệt yếu tố thứ tư là phải có độ cao trên 1000m trở lên. Người Pháp rất thích ở những nơi có độ cao bởi vì đó là những điểm căn cứ quân sự để khống chế phía dưới đồng bằng, Đà Lạt đã thỏa mãn tất cả những yếu tố như vậy cho nhu cầu đặc biệt quan trọng của người Pháp. Từ đó Đà Lạt được hình thành. Đà Lạt ngày nay được mệnh danh là một thành phố mộng mơ, thành phố ngàn hoa. Không những nổi tiếng về ngành du lịch bậc nhất của Việt Nam mà còn là một là thành phố lãng mạn, xứ sở tình yêu, xứ sở đầy hoa và thật quyến rũ bởi vẻ đẹp tự nhiên của núi rừng, của thiên nhiên nơi đây. Đà Lạt đã dâng cảm xúc và tiếp lửa sáng tác cho các tác giả văn chương trong lĩnh vực thơ ca, văn học, nghệ thuật. Thế nhưng có những người vẫn chưa rõ nguồn gốc về sự hình thành của Đà Lạt. Một thành phố được mọc lên giữa rừng để rồi sau đó dần lớn lên theo nếp sống và kiến trúc của người báo Hà Hữu Nết dẫn các hội viên - ban nhà văn trẻ HNV TP HCM đi tham quan làng Cù Lần Là thiên đường du lịch của Việt Nam ngày nay, bởi Đà Lạt là thành phố trên núi, có thiên nhiên, kiến trúc và con người độc đáo. Không cần phải nói nhiều về thiên nhiên nhưng đặc biệt có một điều, người Đà Lạt cũng như những người yêu mến Đà Lạt, trong nước và quốc tế, trong lòng họ đều mong rằng, Đà Lạt phát triển nhưng vẫn phải giữ bản sắc riêng, vẫn phải là Thành Phố trong rừng và rừng trong Thành Phố. Rừng thông Đà Lạt là một chiếc máy điều hòa thiên nhiên khổng lồ luôn ướp lạnh và thanh lọc khí trời làm cho khí hậu Đà Lạt mát mẻ hơn, nếu không có rừng thông, Đà Lạt sẽ chết! Ông Hà Hữu Nết - Chủ tịch Hội Văn Học Nghệ Thuật, Phó Tổng biên tập báo Lâm Đồng cho biết “Năm 1984, tôi là bộ đội ở Hà Nội chuyển ngành vào Đà Lạt. Đơn vị tôi đóng quân ở đường Nguyễn Du. Tôi vào ban đêm và sáng hôm sau khi mở mắt ra, tôi ngạc nhiên vô cùng bởi cảm giác như mình đến một nước Châu Âu xa lạ. Nếu như tôi không nhìn thấy người dân ở đây ăn mặc và nghe giọng nói của họ thì tôi cảm thấy nó như một nước Châu Âu nào đó. Điều đó đối với tôi rất thú vị bởi thành phố trong rừng và rừng trong thành phố. Tôi cảm giác như Đà Lạt được xây dựng bởi một cuộc thi lớn về kiến trúc, tất cả những bản vẽ đoạt giải và chất lượng cao sẽ được Pháp xây dựng ở Đà Lạt. Nhưng sau này khi tìm hiểu kỹ hơn, đặc biệt là giới kiến trúc sư Việt Nam, trong đó có ông Hoàng Đào Kính - cựu phó Chủ tịch hội kiến trúc sư Việt Nam, ông ấy khẳng định không phải như vậy. Đây là sự hoài niệm của người Pháp ở Việt Nam. Người Pháp đã mang bản vẽ của nhà mình đến xây dựng Đà Lạt để nhớ quê hương mặc dù thiết kế nhỏ hơn một chút. Như vậy là mỗi người mỗi vẻ, tạo ra đủ kiến trúc của Bắc- Trung- Nam. Đặc biệt là những lò sưởi, cầu thang, bồn hoa, thảm cỏ và những ngôi biệt thự được xây dựng theo địa hình tự nhiên của Đà Lạt. Những biệt thự được đặt nhẹ nhàng trên thảm cỏ, rừng thông… góp phần tô điểm thêm cho Đà Lạt - đẹp đẽ, ấn tượng và văn minh.”Nhà báo Hà Hữu Nết cùng các hội viên - HNV TP HCM tại nhà sáng tác Đà Lạt Nhà báo Hà Hữu Nết cho biết thêm, Đà Lạt trước đây là một Thành phố đặc biệt “4 có 3 không” bốn có Một ngày có bốn mùa, với khung thời gian của một ngày sáng, trưa, chiều, tối đã mang 4 mùa xuân, hạ, thu, đông; ba không Không đèn giao thông, không xích lô, không máy lạnh, là sự khác biệt nhất nước. Nhưng hiện nay TP Đà Lạt đã được xây dựng hệ thống đèn giao thông nên TP Đà Lạt chỉ còn “4 có 2 không”. Ông rất tự hào về Đà Lạt, một Thành phố có một không hai. Một Thành phố du lịch nổi tiếng, với khí hậu quanh năm mát mẻ, con người hiền hòa, mến khách. Đà Lạt đang lưu giữ hàng ngàn biệt thự cổ, ẩn mình giữa đại ngàn thông xanh, luôn làm ngất ngây người dân và du khách thập phương bởi kiến trúc ở thành phố mang đậm phong cách châu Âu thế kỷ XIX, là sự hoài niệm của người Pháp ở Đông Dương. Tôi yêu Đà Lạt qua sách báo, phim ảnh, âm nhạc từ nhỏ. Đà Lạt “Thành phố trong rừng, rừng trong thành phố” đẹp và thơ mộng đến nao lòng. Đà Lạt như “Mảnh châu Âu” mà tạo hóa ban tặng cho Việt Nam. Đà Lạt là một thành phố thuộc cao nguyên Lâm Viên, nằm ở độ cao trung bình so với mực nước biển. Trải qua 115 hình thành và phát triển, Đà Lạt đã trở thành trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá của tỉnh Lâm Đồng, đồng thời là một trong những trung tâm du lịch, nghỉ dưỡng nổi tiếng của cả nước và khu vực. Với nhiều cảnh quan đẹp, Đà Lạt là một trong những thành phố du lịch nổi tiếng nhất của Việt Nam. Trong thời Pháp thuộc, tên tiếng Latin Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperiem có nghĩa là “cho những người này niềm vui, cho những người khác sự mát mẻ”. Đà Lạt được mệnh danh là thành phố hoa, thành phố tình yêu, thành phố mùa xuân, thành phố sương mù. Vùng cao nguyên Lâm Viên từ xa xưa là địa bàn cư trú của người Lạch, người Chil và người Srê thuộc dân tộc Cơ Ho. Cuối thế kỷ 19, nhiều nhà thám hiểm người Pháp đã thực hiện những chuyến đi xuyên sâu vào vùng đất này. Tiên phong trong số họ là bác sỹ Paul Néis và trung úy Albert Septans với chuyến thám hiểm thực hiện đầu năm 1881. Năm 1893, nhận nhiệm vụ từ Toàn quyền Jean-Marie de Lanessan, bác sỹ Alexandre Yersin đã tiến hành khảo sát một tuyến đường bộ từ Sài Gòn xuyên qua vùng đất của người Thượng và kết thúc ở một địa điểm trên bờ biển Trung Kỳ. Ngày 21 tháng 6 năm 1893, trên hành trình thám hiểm, Alexandre Yersin đã tới cao nguyên Lâm Viên. Năm 1897, trong khi tìm kiếm một địa điểm để xây dựng trạm nghỉ dưỡng cho người Pháp ở Đông Dương, Toàn quyền Paul Doumer gửi thư hỏi ý kiến Alexandre Yersin. Khi nhận được thư của Paul Doumer, Alexandre Yersin gợi ý chọn cao nguyên Lâm Viên, một vùng đất lý tưởng thỏa mãn đầy đủ các điều kiện độ cao thích hợp, diện tích đủ rộng, nguồn nước bảo đảm, khí hậu ôn hòa và có thể thiết lập đường giao thông. Cuối tháng 3 năm 1899, Paul Doumer cùng với Alexandre Yersin đích thân đến khảo sát thực tế tại cao nguyên Lâm Viên. Ngày 1 tháng 11 năm 1899, Doumer ký nghị định thành lập ở Trung Kỳ tỉnh Đồng Nai Thượng Haut-Donnai và hai trạm hành chính được thiết lập tại Tánh Linh và trên cao nguyên Lang Biang. Đó có thể được xem là văn kiện chính thức thành lập trạm điều dưỡng trên cao nguyên Lang Biang – tiền thân của thành phố Đà Lạt sau này. Lang Biang Đà Lạt Ngày 20 tháng 4 năm 1916, vua Duy Tân đã ra đạo dụ thành lập thị tứ, tức thị xã centre urbain Đà Lạt, tỉnh lị tỉnh Lâm Viên. Đạo dụ này được Khâm sứ Charles chuẩn y ngày 30 tháng 5 năm 1916. Trong hai thập niên 1900 và 1910, người Pháp đã xây dựng hai tuyến đường từ Sài Gòn và từ Phan Thiết lên Đà Lạt. Hệ thống giao thông thuận lợi giúp Đà Lạt phát triển nhanh chóng. Vào năm 1893, vùng Đà Lạt ngày nay hầu như hoang vắng. Đến đầu năm 1916, Đà Lạt vẫn còn là một khu thị tứ nhỏ với độ 8 căn nhà gỗ tập trung hai bên bờ dòng Cam Ly, chỉ có 9 phòng khách sạn phục vụ du khách, đến cuối năm này mới nâng lên được 26 phòng. Cuối năm 1923, đồ án thiết kế đầu tiên hoàn thành, Đà Lạt đã có dân. Ngày 31 tháng 10 năm 1920, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định chuẩn y đạo dụ ngày 11 tháng 10 cùng năm của vua Khải Định về việc thành lập thành phố commune- thành phố loại 2 Đà Lạt cùng với việc tỉnh Đồng Nai Thượng được tái lập. Nhằm biến Đà Lạt thành một trung tâm nghỉ mát ở Đông Dương, Nha giám đốc các sở nghỉ mát Lâm Viên và du lịch Nam Trung Kỳ được thành lập. Đứng đầu thành phố là một viên Đốc lý, đại diện của Toàn quyền Đông Dương. Năm 1928 chuyển tỉnh lỵ tỉnh Đồng Nai Thượng về Đà Lạt. Đà Lạt năm 1928 Tới thập niên 1940, Đà Lạt bước vào giai đoạn cực thịnh của thời kỳ Pháp thuộc, "thủ đô mùa hè" của toàn Liên bang Đông Dương. Trong những năm chiến tranh, thành phố vẫn giữ vai trò một trung tâm du lịch nghỉ dưỡng và khoa học giáo dục của Việt Nam Cộng hòa. Dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, nhiều trường học, trung tâm văn hóa và các công trình kiến trúc tiếp tục ra đời. Đà Lạt cũng là nơi định cư của nhiều người di cư từ miền Bắc. Năm 1941, Đà Lạt trở thành tỉnh lỵ tỉnh Lâm Viên Lang Biang mới tái lập. Thị trưởng Đà Lạt kiêm chức Tỉnh trưởng tỉnh Lâm Viên. Trong thời gian Thế chiến thứ hai, những người Pháp không thể về chính quốc nên họ tập trung lên nghỉ ở Đà Lạt. Nhiều nhu cầu rau ăn, hoa quả của người Pháp cũng được Đà Lạt cung cấp. Ngày 10 tháng 11 năm 1950, Bảo Đại ký Dụ số 4-QT/TD ấn định địa giới thị xã Đà Lạt. Theo Địa phương chí Đà Lạt Monographie de Dalat, năm 1953, thị xã Đà Lạt là thủ phủ của Hoàng triều Cương thổ, có diện tích là 67 km², dân số người. Sau Hiệp định Genève năm 1954, dân số Đà Lạt tăng nhanh bởi lượng người di cư từ Bắc vào Nam. Dưới chính quyền miền Nam, Đà Lạt được phát triển như một trung tâm giáo dục và khoa học. Năm 1957, Đà Lạt trở thành tỉnh lỵ tỉnh Tuyên Đức. Thị xã Đà Lạt có 10 khu phố. Nhiều trường học và trung tâm nghiên cứu được thành lập Viện Đại học Đà Lạt 1957, Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt 1959, Thư viện Đà Lạt 1960, trường Đại học Chiến tranh Chính trị 1966, trường Chỉ huy và Tham mưu 1967... Các công trình phục vụ du lịch được tiếp tục xây dựng và sửa chữa, hàng loạt biệt thự do các quan chức Sài Gòn, nhiều chùa chiền, nhà thờ, tu viện được xây dựng... Đà Lạt cũng là một điểm hấp dẫn với giới văn nghệ sĩ. Đà Lạt năm 1960 Sau 1975, với sự rút đi của quân đội và bộ máy chính quyền miền Nam, nhưng được bổ sung bởi lượng cán bộ và quận đội miền Bắc, dân số Đà Lạt ổn định ở con số khoảng 86 ngàn lịch Đà Lạt hầu như bị lãng quên. Những năm cuối thập niên 1980, đầu thập niên 1990, hàng loạt khách sạn, nhà hàng được sửa chữa, nhiều biệt thự được đưa vào phục vụ du lịch... Đà Lạt trở thành một thành phố du lịch quan trọng của Việt Nam với nhiều lễ hội được tổ chức. Cuối năm 1975 Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định Đà Lạt sẽ trở thành 1 trong 4 thành phố trực thuộc Trung ương, nhưng ngay sau đó đã điều chỉnh lại. Tháng 2 năm 1976 Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra Nghị định hợp nhất tỉnh Tuyên Đức, tỉnh Lâm Đồng và thị xã Đà Lạt thành tỉnh Lâm Đồng. Thị xã Đà Lạt trở thành thành phố tỉnh lỵ tỉnh Lâm Đồng. Từ cuối thập niên 1980, đầu thập niên 1990, thành phố dần phát triển trở lại với làn sóng khách du lịch tìm tới ngày một đông và hệ thống cơ sở hạ tầng tiếp tục được xây dựng. Ngày 24 tháng 7 năm 1999, Đà Lạt được Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận là đô thị loại II và ngày 23 tháng 3 năm 2009, Đà Lạt chính thức trở thành thành phố đô thị loại I trực thuộc tỉnh Lâm Đồng. Thành phố Đà Lạt ngày nay Nếu bạn chưa một lần đến Đà Lạt thì bạn hãy lên kế hoạch cho mình 1 chuyến đi gần nhất để trực tiếp cảm nhận vẻ đẹp của Thành phố này nhé. Tôi tin bạn sẽ không bao giờ phải hối tiếc đâu. Những hình ảnh sau đây được chụp ở Đà Lạt hơn 100 năm trước, vào thời điểm mà phố núi này bắt đầu được gọi bằng những mỹ danh là “thủ đô mùa hè” của Đông Dương, là “đô thị nghỉ dưỡng”, một khu nghỉ mát ở trên cao. Lúc này hàng loạt công trình lớn mới được bắt đầu xây dựng ở Đà Lạt sau khi tuyến xe lửa Đà Lạt – Phan Rang đã đi vào hoạt động được một nửa từ Phan Rang lên đến Xóm Gòn, giáp với Lâm Đồng hiện nay, giao thông đường bộ cũng thuận tiện hơn bằng việc mở rộng con đường Phan Thiết – Di Linh – Đà Lạt. Có một sự nhầm lẫn phổ biến khi nói về sự hình thành thành phố Đà Lạt từ thế kỷ 19, đó là hầu hết những câu chuyện về lịch sử Đà Lạt đều có điểm giống nhau, nói rằng cao nguyên Lang Bian được bác sĩ Yersin phát hiện ra vào ngày 21/6/1893. Tuy nhiên thực tế Yersin không phải là người Châu Âu đầu tiên đặt chân đến đây. Khi vùng đất này chính thức trở thành thuộc địa của Pháp năm 1867, ý thức được sự thiếu hiểu biết về phần lớn lãnh thổ Nam kỳ thuộc quyền quản lý của mình, chính quyền Pháp ở Nam kỳ đã đưa ra hàng loạt các cuộc thám hiểm thăm dò tại Tây Nguyên vào đầu những năm 1880. Chuyến thám hiểm đầu tiên được bác sĩ Paul Neis và trung úy Albert Septans thực hiện năm 1881, họ đã đến cao nguyên Lang Bian, ngược thượng lưu sông Đồng Nai để lên tận vùng đầu nguồn. Sau đó là hàng loạt cuộc thám hiểm khác nữa rồi mới đến chuyến đi của bác sĩ Yersin. Dù không phải là người đầu tiên, nhưng cuộc thám hiểm của Yersin lên Lang Bian vào năm 1893 có ý nghĩa đặc biệt, có thể xem là tiền đề cho việc khai sinh ra Đà Lạt. Chuyến đi của ông được Bộ giáo dục ở thuộc địa giao cho nhiệm vụ thám hiểm khoa học, đánh giá tiềm năng phát triển và các nguồn lực chưa được khai thác. Ngoài ra Toàn quyền lúc đó là De Lanessan giao cho Yersin nhiệm vụ thực tế hơn Nghiên cứu phương án làm tuyến đường bộ đi từ Sài Gòn thâm nhập trực tiếp vào xứ sở người Thượng. Rồi sau đó, một sự kiện quan trọng khác ảnh hưởng sâu sắc đến việc xây dựng Đà Lạt, đó là tình hình bệnh tật của lính Pháp khi phải đối mặt với thời tiết khắc nghiệt của miền nhiệt đới, nhiều bệnh nhân nặng thậm chí phải được thuyên chuyển về lại chính quốc bằng tàu biển để được sống lại trong bầu không khí ôn đới, hy vọng sức khỏe được phục hồi nhanh hơn. Tuy nhiên biện pháp này tốn rất nhiều chi phí nhưng không đạt được hiệu quả như mong muốn, thậm chí có nhiều binh lính phải bỏ mạng trên tàu trong nhiều tháng lênh đênh trên biển vượt đại dương. Vì vậy, trong nhiệm kỳ của toàn quyền Paul Doumer vào năm 1897, ông truyền đạt đến bác sĩ Yersin về mong muốn của mình là xây dựng một trạm điều dưỡng ở trên núi, nơi các quan chức và kiều dân có thể phục hồi sức lực nhanh chóng. Bác sĩ Yersin đã phản hồi lại rằng cao nguyên Lang Bian mà ông thám hiểm vài năm trước đó đáp ứng đầy đủ các điều kiện thích hợp để xây dựng một trạm điều dưỡng ở trên núi. Vùng đất này còn nguyên sơ chưa từng được khai thác nên rất thuận lợi để người Pháp xây dựng một thành phố thực thụ mang phong cách Châu Âu đúng như ông Doumer mong muốn. Tuy nhiên để được như vậy thì có rất nhiều việc phải làm. Thời gian sau đó, việc xây dựng nơi này thành một thành phố nghỉ dưỡng diễn ra khá chậm chạp vì phải cần một ngân sách vô cùng lớn để làm đường giao thông rồi đưa số lượng vật liệu khổng lồ vượt vài trăm ki lô mét lên nhiều quả núi. Lúc đó Đà Lạt vẫn là một vùng sơn cước bị cô lập với thế giới bên ngoài. Cho đến năm 1910, Đà Lạt vẫn sống trong lay lắt vì ngân quỹ trống rỗng, mọi việc bị đình trệ. Tình hình bắt đầu có tiến triển hơn kể từ năm 1913, năm mà Đà Lạt được sáp nhập vào khu Di Linh, và toàn quyền Đông Dương lúc đó là Albert Sarraut muốn biến nơi này thành địa điểm nghỉ mát trên cao số một của toàn Đông Dương. Thời điểm này, người Pháp có mặt ở Đông Dương rất đông đúc, họ ngày càng quan tâm đến nơi nghỉ mát có khí hậu giống ở chính quốc. Nghị định ngày 6/1/1916 đã chính thức hóa việc thành lập cùng lúc tỉnh Lang Bian và thị xã Đà Lạt, được Toàn quyền Đông Dương quản lý trực tiếp. Giai đoạn từ thập niên 1920 trở về sau được xem là thời của sự trỗi dậy của một thành phố. Để phục vụ cho số lượng khách du lịch Châu Âu tăng mạnh đến nơi này, toàn quyền Đông Dương lúc đó là Ernest Roume đã ra lệnh xây biệt thự và một khách sạn tráng lệ chưa từng có, khách sạn mang tên Lang Bian Palace, sau này được biết với tên Dalat Palace và vẫn còn cho đến hiện nay. Diện mạo nguyên thủy của Lang Bian Palace mang phong cách cổ điển với các trang trí kiểu nghệ thuật rococo thịnh hành vào thế kỷ 18 ở Pháp. Diện mạo của Dalat Palace của ngày nay được chỉnh sửa lại từ năm 1943 để nó mang đường nét vuông vắn hiện đại hơn. Mời các bạn xem lại hình ảnh Lang Bian Palace 100 năm trước Khuôn viên ᴄủa Lanɡbian Palaᴄе rộnɡ đến hơn 40 nɡhìn mét vuônɡ, ᴄhunɡ quanh là vườn hᴏa, thảm ᴄỏ, rừnɡ thônɡ. Có thể nói sự đồ sộ ᴄủa Lanɡbianɡ Palaᴄе hᴏàn tᴏàn áρ đảᴏ mọi ᴄônɡ trình ᴄủa Đà Lạt về sau này. Vàᴏ thuở sơ khai ᴄủa Đà Lạt, Lanɡ bianɡ Palace đượᴄ xây dựnɡ ở νị trí quy hᴏạᴄh dành riênɡ, ᴄó rất nhiều lợi thế. Cận ᴄảnh là hồ Xuân Hươnɡ, đồi Cù,… Ở phía xa là dãy núi Lanɡ Bianɡ xanh thẳm. Kháᴄh sạn này ᴄó hệ thốnɡ bậᴄ thanɡ trải dài thеᴏ sườn đồi, từ phía Hồ Xuân Hươnɡ đến tận lối νàᴏ ᴄhính. Chi tiết này làm ᴄhᴏ kháᴄh sạn Lan Bian Palaᴄе thêm phần uy nɡhi, duyên dánɡ mà khônɡ kháᴄh sạn nàᴏ ᴄó đượᴄ. Khách sạn có 3 tầnɡ với 43 phòng, đượᴄ tranɡ bị đầy đủ tiện nɡhi νà xa hᴏa nhất, như dàn nhạᴄ, rạp ᴄhớp bónɡ, phònɡ khiêu νũ, phònɡ tập thể dụᴄ, sân tеnnis, ᴄỡi nɡựa, νườn rau riênɡ νà một nhà hànɡ Pháp. Nɡᴏài ra ᴄòn 2 phònɡ họp νới sứᴄ ᴄhứa 100 nɡười. Từ bên trên Langbiang Palace nhìn xuống Cũng trong thời gian này đầu thập niên 1920, chính quyền cho đào một cái hồ nhân tạo ngay giữa trung tâm thành phố, và đến nay nó vẫn là một biểu tượng của Đà Lạt, đó là Hồ Xuân Hương ngày nay. Nhà thủy tạ trên Hồ Xuân Hương – du Lac Hồ Xuân Hương khi chưa được mở rộng. Đằng xa là Lang Bian Palace Một số hình ảnh Chợ Cũ Đà Lạt ở vị trí sau này là Ấp Ánh Sáng Những hình ảnh khác của Đà Lạt thập niên 1920 Nhà thờ Chánh Tòa đầu tiên của Đà Lạt, chỉ tồn tại trong khoảng 2 năm Năm 1917, một linh mụᴄ ᴄó tên là Niᴄᴏlas Cᴏuνеur đã đến Đà Lạt để tìm kiếm một địa điểm xây dựnɡ một νiện nɡhỉ dưỡnɡ ᴄhᴏ ᴄáᴄ ɡiáᴏ sĩ νà ônɡ đã ᴄhᴏ xây dựnɡ một nhà ɡiáᴏ dưỡnɡ nɡay νị trí sau nhà thờ ᴄᴏn Gà hiện nay. Vàᴏ đầu thánɡ 5 năm 1920, ɡiám mụᴄ Quintᴏn ɡiám quản tổnɡ tòa tại Sài Gòn đã quyết định thành lập Giáᴏ Phận Đà Lạt νà bổ nhiệm linh mụᴄ Frédériᴄ Sidᴏt làm ᴄha sở đầu tiên. Một trᴏnɡ nhữnɡ νiệᴄ làm quan trọnɡ ᴄủa Cha Sidᴏt là xây dựnɡ một nɡôi thánh đườnɡ. Kíᴄh thướᴄ ᴄủa nɡôi nhà thờ ᴄhánh tòa đầu tiên ᴄủa Đà Lạt này khá khiêm tốn ᴄhiều dài 24m, rộnɡ 7m νà ᴄaᴏ 5m, xây bên ᴄạnh Dưỡnɡ νiện đã ᴄó trướᴄ đó. Cửa ᴄhính nhà thờ đượᴄ ᴄấu trúᴄ thеᴏ hình νònɡ ᴄunɡ nhọn ᴏɡiνal, đượᴄ ᴄhạm trổ νà sơn sᴏn thiếp νànɡ kiểu Á Đônɡ. Trên νònɡ ᴄunɡ ᴄửa ᴄhính, ᴄó khắᴄ dònɡ ᴄhữ bằnɡ tiếnɡ La-tinh “HIC DOMUS EST DEI” đây là nhà ᴄủa Thiên Chúa. Nhà thờ Chánh Tòa đầu tiên của Đà Lạt trong dịp Noel cách đây tròn 100 năm – Trên đồi dinh tỉnh trưởng – Dinh tỉnh trưởng Đà Lạt – Biệt thự nghỉ mát của Thống đốc Nam Kỳ thập niên 1920. Trước 1975 là tòa Hành chánh tỉnh Tuyên Đức. Nay là UBND Tỉnh Lâm Đồng – Sân tennis – Đường vào Dalat từ ngả đèo Mimosa – Bưu điện – Khách sạn ở Đà Lạt 100 năm trước – Cam Ly – – – – – – Thác Gougah còn có tên gọi là thác Ổ Gà ở Đức Trọng – – – – – Trường lycée Yersin – – Phía xa là lycée Yersin lúc đang xây – Trường Petit lyceé, sau này là trường tiểu học Yersin – Petit lyceé – Ecole élémentaire de Dalat, nay là trường tiểu học Đoàn Thị Điểm đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa – – – Bên trong ga Đà Lạt Dốc trong hình ngày nay là đường Lê Đại Hành, phía xa là đập Ông Đạo đang được xây dựng – Tuyến đường xe lửa nối Phan Rang đến Đà Lạt được tiến hành từ năm 1903, đến năm 1916 mới hoàn thành được một nửa và khánh thành tuyến Phan Rang đến đoạn ranh giới Ninh Thuận – Lâm Đồng hiện nay. Đến năm 1932 mới thông tuyến Phan Rang đến Đà Lạt Một số tòa nhà nổi tiếng ở Đà Lạt được xây vào thập niên 1930 90 năm trước Khách sạn Du Parc được khánh thành vào năm 1932. Khách sạn mang lối trang trí tinh tế kiểu Pháp, trần nhà cao vợi, sàn gỗ cổ kính. Khách sạn Du Parc đóng cửa sau năm 1975 và mở lại năm 1997 với cái tên Novotel Dalat, đến năm 2010 thì đổi lại tên cũ. – Tòa nhà viện Pasteur Đà Lạt được khởi công xây dựng vào năm 1932 và hoàn thành vào tháng 6 năm 1935. Đến năm 1936, theo đề xuất của bác sĩ Alexandre Yersin, chính quyền Pháp quyết định thành lập Viện Pasteur Đà Lạt, cơ sở cuối cùng trong chuỗi các Viện Pasteur tại Đông Dương. Giống như phần lớn các công trình kiến trúc ở Đà Lạt, Viện Pasteur có bố cục tổng thể theo hình khối nằm ngang ổn định, gắn kết chặt chẽ với mặt đất. Công trình gồm hai tầng, mặt ngoài đối xứng gần như hoàn hảo, được trang trí bởi những cửa sổ kiểu cách đa dạng, một phần tường tầng trệt xây theo lối thô giáp. Kiến trúc của Viện Pasteur Đà Lạt chịu nhiều ảnh hưởng từ trào lưu kiến trúc mới. Công trình là tổ hợp của những mảng khối hình chữ nhật, các hình khối mạnh mẽ, đường nét đơn giản và rõ ràng. Nhìn từ ngoài vào, mặt chính của viện trang trí một chân dung Louis Pasteur đắp nổi và dòng chữ Institut Pasteur ở phía trên. Mặt đứng của công trình phản ánh trung thực cấu trúc của mặt bằng. Hệ mái bằng có phần tường xây cao hơn mái hắt, một nét mới trong hình thức kiến trúc thời kỳ này. Xung quanh viện bao bọc bởi một số biệt thự, trước đây vốn là nơi ở của các bác sĩ làm việc trong viện. – Nhà ga được người Pháp xây dựng từ năm 1932 đến 1938 thì hoàn thành, là nhà ga đầu mối trên tuyến Đường sắt Phan Rang-Đà Lạt dài 84 km. Nhà ga có phong cách kiến trúc độc đáo, có ba mái hình chóp, là cách điệu ba đỉnh núi Langbiang hoặc nhà rông Tây Nguyên. – Dinh 2 được xây từ năm 1932, là nơi nghỉ dưỡng của toàn quyền Đông Dương Đông Kha

lich su hinh thanh da lat